🎟
Nguyễn Nhật Ánh

Cho tôi xin
một vé đi
tuổi thơ

Ticket to
Childhood

Translated by William Naythons

Tóm lại là đã hết một ngày

Một ngày, tôi chợt nhận thấy cuộc sống thật là buồn chán và tẻ nhạt.

Năm đó tôi tám tuổi.

Sau này, tôi cũng nhiều lần thấy cuộc sống đáng chán khi thi trượt ở tuổi mười lăm, thất tình ở tuổi hăm bốn, thất nghiệp ở tuổi ba mươi ba và gặt hái mọi thành công ở tuổi bốn mươi.

Nhưng tám tuổi có cái buồn chán của tuổi lên tám.

Ðó là cái ngày không hiểu sao tôi lại có ý nghĩ rằng cuộc sống không có gì để mà chờ đợi nữa.

Rất nhiều năm về sau, tôi được biết các triết gia và các nhà thần học vẫn đang loay hoay đi tìm ý nghĩa của cuộc sống và tới Tết Ma Rốc họ cũng chưa chắc đã tìm ra.

Nhưng năm tôi tám tuổi, tôi đã thấy cuộc sống chả có gì mới mẻ để khám phá.

Vẫn ánh mặt trời đó chiếu rọi mỗi ngày. Vẫn bức màn đen đó buông xuống mỗi đêm. Trên mái nhà và trên các cành lá sau vườn, gió vẫn than thở giọng của gió. Chim vẫn hót giọng của chim. Dế ri ri giọng dế, gà quang quác giọng gà. Nói tóm lại, cuộc sống thật là cũ kỹ.

Cuộc sống của tôi còn cũ kỹ hơn nữa. Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, tôi đã biết tỏng ngày mai những sự kiện gì sẽ diễn ra trong cuộc đời tôi.

Tôi kể ra nhé: Sáng, tôi phải cố hết sức để thức dậy trong khi tôi vẫn còn muốn ngủ tiếp. Tất nhiên là trước đó tôi vẫn giả vờ ngủ mê mặc cho mẹ tôi kêu khản cả giọng rồi lay lay người tôi, nhưng dĩ nhiên tôi vẫn trơ ra như khúc gỗ cho đến khi mẹ tôi cù vào lòng bàn chân tôi.

Khi đặt chân xuống đất rồi, tôi phải đi đánh răng rửa mặt, tóm lại là làm vệ sinh buổi sáng trước khi bị ấn vào bàn ăn để uể oải nhai chóp chép một thứ gì đó thường là không hợp khẩu vị. Mẹ tôi luôn luôn quan tâm đến sức khỏe và cụ thể hóa mối quan tâm của mình bằng cách bắt tôi (và cả nhà) ăn những món ăn có nhiều chất dinh dưỡng trong khi tôi chỉ khoái xực những món mà bà cho rằng chẳng bổ béo gì, như mì gói chẳng hạn.

Quan tâm đến sức khỏe là điều tốt, và càng lớn tuổi mối quan tâm đó càng tỏ ra đúng đắn. Chẳng ai dám nói quan tâm như vậy là điều không tốt. Tôi cũng thế thôi. Khi tôi trưởng thành, có nhà báo phỏng vấn tôi, rằng giữa sức khỏe, tình yêu và tiền bạc, ông quan tâm điều gì nhất? Lúc đầu tôi nói nhiều về tình yêu, về sau tôi nói nhiều hơn về sức khỏe. Tôi phớt lờ tiền bạc, mặc dù tôi nhận thấy đó là một bất công: tiền bạc chưa bao giờ được con người ta thừa nhận là mối quan tâm hàng đầu dù tiền bạc ngày nào cũng chạy đi mua quà tặng cho tình yêu và thuốc men cho sức khỏe.

Nhưng thôi, đó là chuyện của người lớn — chuyện sau này. Còn tôi, lúc tám tuổi, tôi chỉ nhớ là tôi không thích ăn những món bổ dưỡng. Nhưng tất nhiên là tôi vẫn buộc phải ăn, dù là ăn trong miễn cưỡng và lười nhác, và đó là lý do mẹ tôi luôn than thở về tôi.

Ăn xong phần ăn buổi sáng (chả sung sướng gì), tôi vội vàng truy lùng sách vở để nhét vào cặp, nhặt trên đầu tivi một quyển, trên đầu tủ lạnh một quyển khác và moi từ dưới đống chăn gối một quyển khác nữa, dĩ nhiên bao giờ cũng thiếu một món gì đó, rồi ba chân bốn cẳng chạy vù ra khỏi nhà.

Trường gần nhà nên tôi đi bộ, nhưng thực tế thì tôi chưa bao giờ được thưởng thức thú đi bộ tới trường. Tôi toàn phải chạy. Vì tôi luôn luôn dậy trễ, luôn luôn làm vệ sinh trễ, luôn luôn ăn sáng trễ và mất rất nhiều thì giờ để thu gom tập vở cho một buổi học. Về chuyện này, ba tôi bảo: “Con à, hồi bằng tuổi con, bao giờ ba cũng xếp gọn gàng tập vở vào cặp trước khi đi ngủ, như vậy sáng hôm sau chỉ việc ôm cặp ra khỏi nhà!”.

Nhưng hồi ba tôi bằng tuổi tôi thì tôi đâu có mặt trên cõi đời để kiểm tra những gì ông nói, bởi khi tôi bằng tuổi ba tôi bây giờ chắc chắn tôi cũng sẽ lặp lại với con tôi những điều ông nói với tôi — chuyện xếp tập vở trước khi đi ngủ và hàng đống những chuyện khác nữa, những chuyện mà tôi không hề làm.

Chà, với những chuyện như thế này, bạn đừng bao giờ đòi hỏi phải chứng minh. Ðôi khi vì một lý do nào đó mà chúng ta buộc phải bịa chuyện.

Chúng ta cứ lặp lại mãi câu chuyện bịa đó cho đến một ngày chúng ta không nhớ có thật là chúng ta đã bịa nó ra hay không, rồi sau đó một thời gian nữa nếu cứ tiếp tục lặp lại câu chuyện đó nhiều lần thì chúng ta sẽ tin là nó có thật. Thậm chí còn hơn cả niềm tin thông thường, đó là niềm tin vô điều kiện, gần như là sự xác tín. Như các nhà toán học tin vào định đề Euclide hay các tín đồ Thiên Chúa tin vào sự sống lại của Jesus.

Ôi, nhưng đó cũng lại là những vấn đề của người lớn.

Tôi kể tiếp câu chuyện của tôi hồi tám tuổi.

Như vậy, ra khỏi nhà một lát thì tôi tới trường.

Trong lớp, tôi luôn luôn ngồi ở bàn chót. Ngồi bàn chót thì tha hồ tán gẫu, cãi cọ, cấu véo hay giở đủ trò nghịch ngợm mà không sợ bị cô giáo phát hiện, nhưng điều hấp dẫn nhất ở vị trí tối tăm đó là ít khi bị kêu lên bảng trả bài.

Ðiều đó có quy luật của nó. Bạn nhớ lại đi, có phải bạn có rất nhiều bạn bè, yêu quí rất nhiều người nhưng không phải lúc nào bạn cũng nhớ tới họ.

Bộ nhớ chúng ta quá nhỏ để chứa cùng lúc nhiều khuôn mặt hay nhiều cái tên, chỉ khi nào nhìn thấy người đó ngoài phố hay bắt gặp cái tên đó trong một mẩu tin trên báo chẳng hạn thì chúng ta mới chợt nhớ ra và cảm động thốt lên “Ôi, đã lâu lắm mình không gặp nó. Năm ngoái mình kẹt tiền, nó có cho mình vay năm trăm ngàn!”.

Cô giáo của tôi cũng vậy thôi. Làm sao cô có thể nhớ tới tôi và kêu tôi lên bảng trả bài khi mà cô không thể nào nhìn thấy tôi giữa một đống đầu cổ lúc nhúc che chắn trước mặt.

Ngày nào cũng như ngày nào, tôi ngồi đó, vừa xì xầm trò chuyện vừa cựa quậy lung tung, và mong ngóng tiếng chuông ra chơi đến chết được.

Trong những năm tháng mà người ta gọi một cách văn hoa là mài đũng quần trên ghế nhà trường (tôi thì nói thẳng là bị giam cầm trong lớp học), tôi chẳng thích được giờ nào cả, từ giờ toán, giờ tập viết đến giờ tập đọc, giờ chính tả. Tôi chỉ thích mỗi giờ ra chơi.

Ra chơi có lẽ là điều tuyệt vời nhất mà người lớn có thể nghĩ ra cho trẻ con. Ra chơi có nghĩa là những lời vàng ngọc của thầy cô tuột khỏi trí nhớ nhanh như gió, hết sức trơn tru. Ra chơi có nghĩa là được tháo cũi sổ lồng (tất nhiên sau đó phải bấm bụng chui vào lại), là được tha hồ hít thở không khí tự do.

Suốt những năm đi học, tôi và lũ bạn đã sử dụng những khoảnh khắc tự do hiếm hoi đó vào việc đá bóng, bắn bi, nhưng thường xuyên nhất và hăng hái nhất là những trò rượt đuổi, đánh nhau hay vật nhau xuống đất cho đến khi không đứa nào còn ra hình thù một học sinh ngoan ngoãn nữa mới thôi, tức là lúc khuỷu tay đã trầy xước, mắt đã bầm tím, chân đi cà nhắc và áo quần thì trông còn tệ hơn mớ giẻ lau nhà.

Tại sao tôi không kể giờ ra về vào đây. Vì ra về có nghĩa là rời khỏi một nhà giam này để đến một nhà giam khác, y như người ta chuyển trại cho các tù nhân, có gì hay ho đâu.

Tôi không nói quá lên đâu, vì ngày nào chào đón tôi ở đầu ngõ cũng là khuôn mặt lo lắng của mẹ tôi và khuôn mặt hầm hầm của ba tôi.

– Trời ơi, sao ngày nào cũng ra nông nỗi thế này hả con?

Ðại khái mẹ tôi nói thế, giọng thảng thốt, vừa nói vừa nắn nót cánh tay rướm máu của tôi như để xem nó sắp rụng khỏi người tôi chưa.

Ba tôi thì có cách nói khác, rất gần với cách rồng phun lửa:

– Mày lại đánh nhau rồi phải không?

– Con không đánh nhau. Tụi bạn đánh con và con đánh lại.

Tôi nói dối (mặc dù nói dối như thế còn thật hơn là nói thật) và khi ba tôi tiến về phía tôi với dáng điệu của một cơn bão cấp mười tiến vào đất liền thì mẹ tôi đã kịp kéo tôi ra xa:

– Ông ơi, con nó đã nát nhừ ra rồi!

Mẹ tôi có cách nói cường điệu rất giống tôi, tôi vừa chạy theo bà vừa cười thầm về điều đó.

Sau đó, không nói thì ai cũng biết là tôi bị mẹ tôi tống vào nhà tắm. Khi tôi đã tinh tươm và thơm phức như một ổ bánh mì mới ra lò thì mẹ tôi bắt đầu bôi lên người tôi đủ thứ thuốc xanh xanh đỏ đỏ khiến tôi chẳng mấy chốc đã rất giống một con tắc kè bông.

Dĩ nhiên là từ đó cho tới bữa cơm, tôi không được phép bước ra khỏi nhà để tránh phải sa vào những trò đánh nhau khác hấp dẫn không kém với bọn nhóc trong xóm, những đối thủ thay thế hết sức xứng đáng cho tụi bạn ở trường.

Ăn trưa xong thì tôi làm gì vào thời tôi tám tuổi?

Ði ngủ trưa!

Trên thế giới rộng lớn này, có lẽ có rất nhiều đứa nhóc trạc tuổi tôi đều bị các bậc phụ huynh cột chặt vào giấc ngủ trưa theo cái cách người ta cột bò vào cọc để chúng khỏi chạy lung tung mà hậu quả là thế nào hàng xóm cũng kéo đến nhà chửi bới om sòm.

Chứ thực ra với một đứa bé tám tuổi thì giấc ngủ trưa chẳng có giá trị gì về mặt sức khỏe. Khi tôi lớn lên thì tôi phải công nhận giấc ngủ trưa đối với một người lớn tuổi đúng là quý hơn vàng. Lớn tuổi thì sức khỏe suy giảm. Làm việc nhiều thì đầu nhức, mắt mờ, lưng mỏi, tay run, giấc ngủ ban đêm vẫn chưa đủ liều để sửa chữa thành công những chỗ hỏng hóc của cơ thể. Buổi trưa phải chợp mắt thêm một lát thì buổi chiều mới đủ tỉnh táo mà không nện búa vào tay hay hụt chân khi bước xuống cầu thang.

Nhưng nếu bạn sống trên đời mới có tám năm thì bạn không có lý do chính đáng để coi trọng giấc ngủ trưa. Với những dân tộc không có thói quen ngủ trưa, như dân Mỹ chẳng hạn, trẻ con càng không tìm thấy chút xíu ý nghĩa nào trong việc phải leo lên giường sau giờ cơm trưa.

Hồi tôi tám tuổi dĩ nhiên tôi không có được cái nhìn thông thái như thế. Nhưng tôi cũng lờ mờ nhận ra khi ba tôi đi ngủ thì tôi buộc phải đi ngủ, giống như một con cừu còn thức thì người chăn cừu không yên tâm chợp mắt vậy.

Tôi nằm cựa quậy bên cạnh ông trên chiếc đi-văng, thở dài thườn thượt khi nghĩ đến những quả đấm mà lũ bạn nghịch ngợm đang vung lên ngoài kia.

– Ðừng cựa quậy! Cựa quậy hoài thì sẽ không ngủ được!

Ba tôi nói, và tôi vờ nghe lời ông. Tôi không cựa quậy nhưng mắt vẫn mở thao láo.

– Ðừng mở mắt! Mở mắt hoài thì sẽ không ngủ được!

Ba tôi lại nói, ông vẫn nằm ngay ngắn nên tôi nghĩ là ông không nhìn thấy tôi mở mắt, ông chỉ đoán thế thôi. Chẳng may cho tôi là lần nào ông cũng đoán đúng.

Tôi nhắm mắt lại, lim dim thôi, mi mắt vẫn còn hấp háy, nhưng tôi không thể nào bắt mi mắt tôi đừng hấp háy được.

Một lát, ba tôi hỏi:

– Con ngủ rồi phải không?

– Dạ rồi.

Tôi đáp, ngây ngô và ngoan ngoãn, rơi vào bẫy của ba tôi một cách dễ dàng.

Tôi nằm như vậy, thao thức một lát, tủi thân và sầu muộn, rồi thiếp đi lúc nào không hay.

Khi tôi thức dậy thì đường đời của tôi đã được vạch sẵn rồi. Tôi đi từ giường ngủ đến phòng tắm để rửa mặt rồi từ phòng tắm đi thẳng tới bàn học để làm một công việc chán ngắt là học bài hoặc làm bài tập.

Thỉnh thoảng tôi cũng được phép chạy ra đằng trước nhà chơi với lũ trẻ hàng xóm nhưng trước ánh mắt giám sát của mẹ tôi (từ một vị trí bí hiểm nào đó đằng sau các ô cửa mà mãi mãi tôi không khám phá được), tôi chỉ dám chơi những trò ẻo lả như nhảy lò cò hay bịt mắt bắt dê, đại khái là những trò dành cho bọn con gái hay khóc nhè. (Về sau, tinh khôn hơn, tôi đã biết cách ỉ ôi để mẹ tôi thả tôi qua nhà hàng xóm, nhờ đó một thời gian dài tôi đã có cơ hội làm những gì tôi thích).

Chơi một lát, tôi lại phải vào ngồi ê a tụng bài tiếp, càng tụng càng quên, nhưng vẫn cứ tụng cho mẹ tôi yên lòng đi nấu cơm.

Từ giây phút này trở đi thì đời sống của tôi tẻ nhạt vô bờ bến.

Tôi uể oải học bài trong khi chờ cơm chín. Cơm chín rồi thì tôi uể oải ăn cơm trong khi chờ tiếp tục học bài.

Tivi tiveo hiếm khi tôi mó tay vào được, trông nó cứ như một thứ để trang trí. Bao giờ cũng vậy, tôi chỉ được rời khỏi bàn học khi nào tôi đã thuộc tất cả bài vở của ngày hôm sau.

Ba tôi là người trực tiếp kiểm tra điều đó. Khác với mẹ tôi, ba tôi là người kiên quyết đến mức tôi có cảm tưởng ông sẽ thăng tiến vùn vụt nếu vô ngành cảnh sát, tòa án hay thuế vụ. Ông không bao giờ lùi bước trước những giọt nước mắt của tôi, dù lúc đó trông tôi rất giống một kẻ sầu đời đến mức chỉ cách cái chết có một bước chân.

– Con học bài xong rồi ba. — Thường thì tôi mở miệng trước.

Ba tôi tiến lại và nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ:

– Chắc không con?

– Dạ, chắc!

Tôi mau mắn đáp và khi ba tôi bắt đầu dò bài thì tôi lập tức phủ nhận sạch trơn sự quả quyết của mình bằng cách ngắc ngứ ngay ở chỗ mà tôi nghĩ dù có va đầu phải gốc cây tôi cũng không thể nào quên được.

– Học lại lần nữa đi con!

Ba tôi nhún vai nói và quay đi với tờ báo vẫn cầm chặt trên tay, rõ ràng ông muốn gửi đến tôi thông điệp rằng ông sẵn sàng chờ đợi tôi cho dù ông buộc phải đọc tới mẩu rao vặt cuối cùng khi không còn gì để mà đọc nữa.

Qua cái cách ông vung vẩy tờ báo trên tay, tôi e rằng ẩn ý của ông còn đi xa hơn: có vẻ như nếu cần, ông sẽ bắt đầu đọc lại tờ báo đến lần thứ hai và hơn thế nữa. Nghĩ vậy, tôi đành vùi đầu vào những con chữ mà lúc này đối với tôi đã như những kẻ tử thù, tâm trạng đó càng khiến tôi khó mà ghi nhớ chúng vô đầu óc.

Cho nên các bạn cũng có thể đoán ra khi tôi đã thuộc tàm tạm, nghĩa là không trôi chảy lắm thì cơ thể tôi đã bị giấc ngủ đánh gục một cách không thương tiếc và thường thì tôi lết vào giường bằng những bước chân xiêu vẹo, nửa tỉnh nửa mê trước ánh mắt xót xa của mẹ tôi.

Như vậy, tóm lại là đã hết một ngày.

· · ·

When the Day is Done

One day, I suddenly realized that life was dull and boring.

The first time this happened, I was eight.

I had the same feeling at fifteen, when I failed my high school entrance exam; at twenty-four, when I got my heart broken; at thirty-three, when I lost my job; and at forty, when I was fully employed and happily married, but then it didn’t matter.

There are many shades of boredom, though, and eight was a dark year: I felt that the future had nothing in store for me.

Many years later, I would discover that philosophers had, for millennia, been turning their minds inside out like a pocket looking for the meaning of life, to no avail. But when I was eight, I understood: there was nothing new out there.

The same sun shone every day; the same curtain of darkness dropped every night; the wind in the eaves, and in the trees, moaned the same moans; the same birds sang their same songs; the crickets always chirped the same chirping; and it was true for the chickens squawking the same squawks. In short, all of life was of a sameness: worn out and dull.

Before going to bed every night, I knew for sure what the next day would bring.

Let me tell you: In the morning, I would try my best not to get out of bed. I would pretend to be fast asleep, ignoring my mother’s voice and lying there like a log while she shook my shoulders and tickled my feet. Once she roused me, I had to go brush my teeth and wash my face before being forced to sit at the breakfast table, listlessly chewing on something disgusting. My mother’s major concern was to make me (and the whole family, for that matter) eat balanced meals, whereas the only food I really liked—instant noodles—she considered junk.

It is good to care about your health, obviously, especially as you get older. Who would deny it? Not me. A journalist once asked me which of humanity’s most common cares worried me the most: health, love, or money. Love, I said, was first, and health was second, and money can’t buy either, or so they say.

But that’s for adults to think about. At eight, I didn’t like to eat balanced meals, and was forced to eat them, which I did reluctantly, which is why my mother always complained about me.

After finishing breakfast, I’d hurry to find my schoolbooks and to load my backpack. I’d find one book on top of the TV, another on the refrigerator, and still another buried in a pile of bedding. Of course I’d forget something, as I always did. And then I’d dash out of the house.

I walked to school, because it was near my house, but I never had a chance to enjoy the walk—I always had to run because I always got up late, brushed my teeth late, ate breakfast late, and wasted a lot of time searching for my stuff. Of this cycle my father said: “Son, when I was your age, I always neatly loaded my backpack the night before, so the next morning, I just grabbed it!” I don’t know if this was true or not—I obviously wasn’t around at the time—but now that I’m my father’s age, I say the same thing to my kids. I also boast about hundreds of other sensible things that I also never actually did. Sometimes, for our own reasons, we make up a story about our past, and keep repeating it until we can’t remember that we made it up, and if we continue to tell the same story over and over, we end up believing it.

Anyway, as I said, that’s adult stuff. Now back to my story about being eight. I always took a seat in the back of the classroom. It was a gloomy spot, but it gave me the chance to chat, argue, or play tricks without fear of being caught by the teacher. But the best thing about sitting in the back was that the teacher never called me to the front to recite a lesson.

How did I get away with this? Think about it: you probably have a lot of friends who aren’t on your mind all the time, right? Our memories have limited storage space, like a closet, so the names and faces that don’t get a lot of use are stored in the back, where you forget them until you see a familiar face on the street. Then, suddenly, you remember they exist. “Hey, weird—I haven’t seen him for ages,” you think. “Last year, when I was broke, he lent me a twenty.”

Likewise with my teacher: out of sight, out of mind. The thick hedge of dark heads in front of me blocked her view of my face, which obstructed her recall of my name, so she forgot to call on me.

Here’s how we referred to school in those days: wearing out the seat of your pants, because we spent so much time sitting on a hard bench. (But let’s not be coy—let’s call it what it really was: jail.) I didn’t like a single subject: not math, not calligraphy, not reading, not dictation. I only liked recess.

Who was the adult benefactor that invented recess? What a genius! Recess is an open door. It’s an open door in your brain that lets the teacher’s droning whoosh out like so much hot air, and it’s the door of a cage that frees you to forget your cares.

My friends and I spent those precious moments of freedom playing football or marbles. More often, though, we got our thrills from chasing each other, fighting, or wrestling until the neatly-groomed students who had sat so quietly wearing out their pants looked like a bunch of hooligans with bloody knuckles and black eyes, dressed in their mothers’ dishrags.

Maybe you’re wondering why, under the circumstances, I don’t tell a story about the fun we had after school. That’s because there wasn’t any. We just went from one form of house arrest to another.

I’m not exaggerating. Every day, when I went home for lunch, I was welcomed at the front gate by the same worried look on my mother’s face, the same grimace on my father’s.

“Why do you always look like a dead water rat, son?”

Thus spoke my mother.

My father fumed like a dragon: “You got in a fight again?”

“My friends hit me and I hit them back.”

When my father took a step toward me with a violent expression, my mother interceded:

“Please don’t. He’s been beaten up badly enough!”

My mother and I shared a habit of dramatizing things for effect. I followed her into the house, smiling secretly.

After that, as you can probably imagine, my mother would shove me into the bathroom. When I was as clean and fragrant as a bowl of steamed rice, she began to salve my wounds with so much colored goo that I looked like a gecko.

Of course, after that, I was grounded.

This meant that I couldn’t pick on the little kids in the neighborhood, who made for decent sparring partners when I didn’t have my schoolmates to knock around.

What did I do after lunch, when I was eight years old?

Well, I took a nap!

Putting your kid down for a nap is like tying your cow to a post so it doesn’t stray or cause damage that would rile the neighbors, who would come over and raise hell. Parents all over the world know this.

In fact, contrary to the common wisdom, naps have no health benefits for eight-year-olds. For old people, yes. With age, your health deteriorates; hard work takes its toll, and a good night’s sleep isn’t enough to repair all the damage. So it’s true, a little nap can help the elderly—that is, people as old as thirty or forty—get back to the workday with a clearer head, so that they don’t smash a thumb with a hammer or lose control of their bladder.

But if you have lived on this planet for only eight years, a nap makes no sense. And in some cultures—in America, for example, where people wouldn’t think of climbing into bed after lunch—kids aren’t forced to nap, either. At least that’s what I’ve heard.

When I was eight, of course, I wasn’t thinking in global terms about local customs. I just knew that when my father took a nap, he forced me to take one, too, like the farmer who tethers his cow when he lies down for his own rest. So I lay beside him on the couch, heaving restless sighs at the thought of my friends exchanging punches outside.

“Stop fidgeting! How can you sleep that way?” my father said, and I pretended to obey him. I lay still but my eyes were still open.

“Shut your eyes!” my father added. But how did he know they were open if his own lids were closed?

I tried closing my eyes, but I just succeeded in narrowing them, like the slats of a shutter, because the eyeballs were still moving.

“Are you sleeping yet?” my father asked a little while later. How stupid is that? If I told him I was fast asleep, which I always did, he knew that I wasn’t.

I lay like that, bored stiff, and feeling very sorry for myself, until I dozed off without knowing it.

When I woke up, it was back to the old routine: splash some water on my face, march straight to the desk, start my homework.

Sometimes, I was allowed a little outdoor playtime, but only under my mother’s attentive gaze (she was inside, spying on me from some secret vantage point I never discovered), and I was limited to sissy games like hopscotch or blind man’s bluff. Later, I wised up and figured out how to sweet talk my mother into letting me have “study dates” at my friends’ houses. Away from her watch, I could do what I wanted.

After my little break—if I got one—it was back to work. The more I read, the more I forgot, but I nattered on, reciting my lessons like a parrot in order to make my mother confident enough of my diligence to leave me alone and start cooking.

As the evening wore on, my boredom knew no bounds: while the rice was cooking, I wearily memorized page after page. When the rice was ready, I wearily ate it. Then, wearily, I went back to my books. I wasn’t allowed to budge until I had memorized all the lessons for the next day.

It was my father who tested me, and unlike my mother, he was so thorough, determined, and unforgiving that he might have had a brilliant career as a policeman, a judge, or a tax official. He was never moved by my fatigue or by my tears, nor did he show any sympathy for the pathetic look on my face—I resembled nothing less than a spent galley slave on the brink of death.

It went like this:

“I’m all done, dad.”

He approaches with a suspicious look:

“Are you sure?”

“Yes, I’m sure!”

He begins to test me, and I immediately contradict myself by flubbing the very answers that were best rehearsed. How did this happen? Did I bang my head and have a concussion without knowing it?

”Take another go at it, son!” my father commanded, and then he turned back to his newspaper. The aggressive way he rustled its pages as he settled into his chair was a kind of warning: he would read it ten times, if necessary, down to the smallest ad for used tires, while I learned my lessons to his satisfaction. But now the words in my textbook swarmed on the page like enemy soldiers. To memorize them was to defeat them, and they seemed determined to resist me.

You can probably guess the outcome of this battle. By the time I mastered my lesson even just passably, sleep, like quicksand, was dragging me under.

Thus ended one day in my life.

· · ·

Ðặt tên cho thế giới

Rốt cuộc, sau những thương tích tâm hồn lẫn thể xác, chúng tôi buộc phải chấp nhận không nên nghĩ khác bản cửu chương in ở đằng sau mỗi cuốn tập. Nếu muốn thay đổi chúng tôi đành phải chờ đến lúc thành tài, tức là lúc đã trở thành những nhà toán học nổi tiếng thế giới, lúc đó chúng tôi sẽ soạn một bản cửu chương theo ý mình.

Trong khi chờ đợi (ôi, lâu quá!), tôi, Hải cò, con Tủn và con Tí sún buộc phải đồng ý trong đớn đau rằng 2 lần 4 là 8, cũng như 3 lần 5 là 15.

Với thái độ đầu hàng nhục nhã đó, chúng tôi nhanh chóng trở lại là những đứa con ngoan trong mắt ba mẹ, nghĩa là coi chuyện giữ gìn tập vở là thiêng liêng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, cũng như buộc phải thừa nhận rằng một đứa trẻ siêng học dứt khoát không phải là một đứa trẻ hư hỏng.

Cuộc sống lại quay lại đường ray cũ kỹ của nó và đời tôi lại có nguy cơ mòn mỏi theo nhịp sống đơn điệu kể từ khi tôi được sinh ra.

Làm thế nào bây giờ nhỉ? Tôi nghĩ, nghĩ mãi, và nhờ thượng đế phù hộ cuối cùng tôi cũng nghĩ ra lối thoát.

– Này, tụi mày! — Nhà cách mạng tập hợp đám tàn binh của mình lại — Kể từ hôm nay, tụi mình không gọi con gà là con gà, con chim là con chim, cuốn tập là cuốn tập, cây viết là cây viết nữa…

Con Tí sún ngẩn ngơ:

– Thế gọi bằng gì?

– Gọi bằng gì cũng được, miễn là không gọi như cũ!

Hải cò nheo mắt:

– Thế gọi cái nón là cuốn tập, cái đầu là cái chân được không?

– Ðược. — Tôi hừ mũi — Mày muốn gọi cái đầu là cái mông cũng được.

Con Tủn thắc mắc:

– Nhưng tại sao lại làm thế?

Năm đó, tức vào năm tám tuổi, tôi chưa biết rằng trong công thức 5W mà người phương Tây dùng như một công cụ để khám phá sự thật, gồm “What – Who – Where – When – Why” mà người Việt chúng ta vẫn dịch là “Cái gì – Ai – Ở đâu – Khi nào – Tại sao” thì câu hỏi “Tại sao” bao giờ cũng là câu hỏi sâu sắc nhất, có tính bản chất nhất, và dĩ nhiên là khó trả lời nhất. So với bốn câu hỏi còn lại, câu hỏi bắt đầu bằng hai chữ “Tại sao” quan trọng hơn hẳn.

Hồi bé, hẳn là bạn cũng có hằng hà những câu hỏi “tại sao” khiến ba mẹ bạn vô cùng bối rối.

Tại sao khi mưa trời lại có sấm sét?

Tại sao tóc chỉ mọc ở trên đầu?

Tại sao chúng ta lại ăn Tết?

Tại sao đường lại ngọt còn muối thì mặn?

Tại sao máu có màu đỏ?

Tại sao con cò khi ngủ lại co một chân?

Tại sao đàn ông có vú?

Tại sao trái đất quay quanh mặt trời?

Chúng ta, nói một cách chính xác là bọn nhóc tì chúng ta, đã đi từ thắc mắc đơn giản nhất đến thắc mắc phức tạp nhất, trong đó có những câu hỏi mà nếu không phải là một nhà khoa học giỏi giang thì không thể giải thích thấu đáo được. Ba mẹ chúng ta hồi đó (chúng ta bây giờ đôi khi cũng vậy) thường tìm cách lảng sang chuyện khác hoặc không nhịn được mà nổi khùng lên với đám con cái chẳng qua vì họ tự giận mình không phải là nhà khoa học giỏi giang đó thôi.

Nhưng đến những câu hỏi kiểu như “Tại sao chúng ta được sinh ra?”, “Tại sao chúng ta phải sống?”, “Tại sao chúng ta phải chết?”, thì các nhà khoa học cũng bó tay. Những thắc mắc lúc này đã trở nên siêu hình và bắt đầu đặt chân vào lãnh vực của triết học. Thái tử Tất Ðạt Ða từng đi tìm lời giải đáp cho vấn nạn cơ bản này — nhằm giải mã ý nghĩa của sự tồn tại, để cuối cùng trở thành một nhà khai sáng thuộc loại vĩ đại bậc nhất thế giới dưới cái tên Thích Ca Mâu Ni.

Ôi, tôi lại huyên thuyên nữa rồi. Nhưng tất cả cũng là do con Tí sún. Nó hỏi tôi “tại sao” — một câu hỏi mang mầm mống triết học. Ðể nỗ lực trả lời một câu hỏi mang mầm mống triết học, bất cứ ai cũng có thể trở thành triết gia, cho dù người đó không cố ý và chỉ mới có tám tuổi.

Tôi thao thao, mặt đỏ gay:

– Tại sao lại làm thế à? Tại vì tụi mình cần phải chứng tỏ tụi mình có giá trị riêng. Tụi mình không thích tuân thủ theo sự sắp đặt của người khác. Tại sao phải gọi con chó là con chó? Hừ, con chó là con chó, điều đó chẳng có ý nghĩa gì hết. Nếu người đầu tiên gọi con chó là cái bàn ủi thì bây giờ chúng ta cũng gọi nó là cái bàn ủi. Chỉ toàn là a dua thôi! Thật là ngu ngốc!

– Hay quá, cu Mùi! — Hải cò reo lên — Trong bọn, cái bàn ủi nhà con Tủn là hung dữ nhất. Nếu con Tủn không xích cái bàn ủi của nhà nó lại, thì dù tao có là chồng nó tao thề sẽ không bao giờ bước chân qua nhà nó!

– Hải cò! — Con Tủn gầm gừ — Tôi nghĩ bạn nên khép cái cánh tay của bạn lại đi.

Hải cò dang tay ra và nhíu mày:

– Cánh tay này á?

Tôi cười:

– Tao nghĩ con Tủn đang muốn nói đến cái miệng của mày thì đúng hơn.

– À, — Hải cò gục gặc đầu — Có nghĩa là từ nay chúng ta sẽ gọi cái miệng là cánh tay. Hay đấy!

oOo

Những ngày đó, tốt nhất là bạn không nên bước vào thế giới của bọn tôi. Nếu không, bạn sẽ có cảm giác bạn đang lạc vào một hành tinh khác.

Tôi nói thật đó. Vì chắc chắn bạn sẽ không thể hiểu những lời đối đáp như thế này:

– Tối rồi, tao về nhà đi chợ đây.

– Mẹ tao hứa sẽ mua cho tao một cái giếng mới vào ngày sinh nhật.

Dù giàu tưởng tượng đến mấy, bạn cũng không tài nào hình dung được chúng tôi có thể nói đi chợ thay cho đi ngủ, cũng như chiếc cặp bỗng nhiên biến thành cái giếng một cách hồn nhiên.

Những bậc phụ huynh đáng kính tất nhiên không thích thú gì với cái trò ăn nói lung tung này, nhất là bọn tôi có vẻ như dần dần nhiễm những từ ngữ mới đến mức khi ba con Tủn bảo nó tắt quạt máy thì nó lại tắt tivi, cũng như con Tí sún hàng chục lần chạy ra đường chỉ để kiếm con Vện trong khi mẹ nó mỏi mòn chờ nó mang cái bàn ủi vô.

Lúc đó, tôi cứ nghĩ đó là trò chơi trẻ con và chỉ trẻ con mới nghĩ ra những trò kỳ thú như vậy. Chúng tôi muốn thay đổi một cách gọi, thậm chí nếu được thì đặt tên lại cho cả thế giới, chỉ với một mục đích hết sức tốt đẹp là làm cho thế giới mới mẻ, tinh khôi như được sinh ra lần nữa. Chúng tôi đâu có cách nào khác khi chúng tôi còn quá trẻ trong khi thế giới thì lại quá già. Vì vậy mà bọn nhóc chúng tôi rất cần một thế giới non trẻ và giàu có của riêng mình.

Nhưng khi tôi đã trở thành người lớn thì tôi phát hiện ra người lớn cũng rất thích chơi trò này, tất nhiên với một mục đích hoàn toàn khác. Người ta gọi hối lộ là tặng quà trên mức tình cảm, gọi những hành vi sai trái là thiếu tinh thần trách nhiệm, gọi tham ô là thất thoát gây hậu quả nghiêm trọng, vân vân và vân vân. Mục đích của sự đánh tráo khái niệm này là đẩy vô chỗ mù mờ những gì đang vô cùng sáng rõ, với cách thức điển hình là dùng một cụm từ phức tạp và có thể hiểu sao cũng được để gọi một sự việc mà người ta hoàn toàn có thể gọi đích danh bằng một từ ngắn gọn, đơn giản và minh bạch đến mức dù muốn cũng không ai có thể hiểu khác đi. Cứ theo cung cách đáng ngại này một ngày nào đó rất có thể người ta sẽ phát giải Nobel vật lý cho người nào có khả năng gây ra một lực tác động có chủ ý khiến vật chất chuyển động từ vị trí này sang vị trí khác mà khách thể không hề hay biết trong khi cái cụm từ mỹ miều, sang trọng đó thực ra là để chỉ tên móc túi.

Bọn trẻ chúng tôi ngây thơ và trong sáng hơn nhiều.

Nhưng cũng vì vậy mà chúng tôi phải trả giá.

Ðây là tai nạn của Hải cò.

Cô giáo kêu nó đọc một đoạn văn trong sách tập đọc.

– Em lấy sách ra! — Cô giáo bảo và nó thản nhiên cầm lên cuốn sách toán.

– Ðâu phải cuốn này! — Cô giáo sửng sốt — Em không đem theo sách tập đọc à? Thế cuốn tập của em đâu. Em có chép bài không đấy?

Hải cò lúng túng lôi cái nón vải nhét trong túi quần ra, đặt lên bàn.

– Em đùa đấy à! — Cô giáo đứng phắt dậy, mặt đỏ gay — Em theo cô lên văn phòng gặp thầy hiệu trưởng ngay!

– Thưa cô, thầy hiệu trưởng hôm nay không đi học. Hôm qua thầy hiệu trưởng đánh nhau với em, sáng nay còn nằm rên hừ hừ ở nhà ạ.

Thầy hiệu trưởng trong tâm trí Hải cò tất nhiên là tôi — thằng cu Mùi. Chiều hôm qua tôi nện nhau với nó thật (chỉ vì giành nhau xem đứa nào được làm cha đứa nào trước) và đến tối thì tôi lên cơn sốt, vì nguyên nhân gì chỉ có trời mới biết nhưng Hải cò huênh hoang là nó đánh tôi nằm bẹp.

Trong thế giới vừa được đặt tên lại của bọn tôi, Hải cò là cảnh sát trưởng, con Tủn là tiếp viên hàng không, con Tí sún là nàng Bạch Tuyết, còn tôi là thầy hiệu trưởng. Những cái tên này do chúng tôi tự chọn, theo nguyện vọng thầm kín của mỗi đứa.

Những ngày tuơi đẹp trước khi Hải cò bị nạn, thế giới của bọn tôi đầy ắp những âm thanh hoan hỉ như thế này:

– Thầy hiệu trưởng, hôm nay tôi làm mẹ, thầy hiệu trưởng làm con nhé?

– Mày nhai chóp chép cái gì trong cánh tay vậy, cảnh sát trưởng làm con nhé?

– Bạch Tuyết, đứng xê ra xa chút đi! Tối hôm qua trong lúc đi chợ con có đái dầm không mà ba nghe khai rình thế?

– Tiếp viên hàng không, bạn mới mua cuốn tập mới hả? Ðưa đây đội thử chút coi!

Các bạn cũng biết rồi đó, bọn tôi đặt cho cái nón cái tên mới là cuốn tập, tivi là quạt máy, đi ngủ là đi chợ. Và cũng thật là tuyệt khi bọn tôi gọi môn toán là môn tập đọc, lịch sử là tập viết, môn đạo đức là tập vẽ, và hằng hà những cuộc cách tân táo bạo khác.

Nhưng tất cả đều không nguy hiểm bằng gọi cu Mùi bằng thầy hiệu trưởng.

Rất may là thầy hiệu trưởng thật sau hàng giờ thẩm vấn cảnh sát trưởng đã hiểu ra thầy hiệu trưởng bị Hải cò đánh cho nằm bẹp không phải là thầy, và tuy thầy không coi đó là sự xúc phạm nhưng sau giờ phút đen tối đó của lịch sử, con chó đã trở lại là con chó, thằng cu Mùi trở lại là thằng cu Mùi, có nghĩa chúng tôi không được phép định nghĩa lại thế giới một lần nữa theo cách mà người lớn còn lâu mới nghĩ ra.

Họ cấm chúng tôi có thể vì họ ghen tị chăng?

· · ·

Naming the World

After taking our beatings in body and mind, we were eventually forced to accept the evidence of reality that appeared on the back of our notebooks, in the form of multiplication tables. If we wanted to rewrite them and make our own, we’d first have to become world-famous mathematicians. As we waited for that day to come (though no one held his breath), Hai, Tun, Ti, and I had to agree, albeit grudgingly, that two times four was eight.

Humbled by our defeat, we became the well-behaved children that our parents wanted us to be. This meant that we now treated our copybooks as we did our teeth—their cleanliness was sacred and we stopped confusing diligent students with delinquents, and vice versa.

Life was back in its old groove, and I ran the risk of being worn down by its monotony like a vinyl record played over and over with a dull needle. My only thought was: “What should I do now?”

The revolutionary, it turns out, had another battle plan up his sleeve. So I rallied my troops and told them, “From this day forward, we will no longer call a chicken a chicken, a notebook a notebook, or a pen a pen.”

“What shall we call them?” asked Tun.

“Anything else!” I replied.

Hai blinked:

“Call a hat an umbrella, or an arm a leg?” he asked.

“Why not?” I snorted. “You can also call your head your ass.”

“But why should we do that?” Ti asked.

That year, I hadn’t yet learned the five Ws: What, Who, Where, When and Why. “Why” is always the hardest question—and the most important.

All kids tire and embarrass their parents with “why” questions:

Why does thunder follow lightning during a rainstorm?

Why does hair grow from your head and not the soles of your feet?

Why is sugar sweet and salt salty?

Why is blood red and the sky blue?

Why does a stork sleep on one leg?

Why do men have nipples like women if they don’t nurse babies?

Why does the earth go around the sun?

All this “why-ning” starts about three or four, then progresses to harder “whys” as a child gets older, until the questions he starts asking are so tricky, so exotic, that only a scientist could answer them. As long as children have asked tough questions, parents have tried to change the subject or have said that the answer has to do with God’s will. Or they’ve gotten angry with their kids when they were really angry with themselves for the gaps in their knowledge.

But questions like “Why was I born?” and “Why do I have to die?” stump even scientists. Here you get into philosophy. Thousands of years ago, an Indian prince named Siddhartha gave up his kingdom, and went into the forest with a begging bowl, looking for answers, hoping that they would, in turn, reveal the truths and mysteries of our human condition, and he became the most enlightened being who has ever lived: the Buddha.

Sorry, I’m rambling. But it’s all because of Tun. She asked me “why,” and to answer her, I could only do one thing. At eight years old, without the slightest ambition for the job—to say nothing of character—I had to become a philosopher.

”Why?” I responded. “Because we need to reject the arbitrary rules invented by grownups. Why should we call a dog a dog? Because ’a dog is a dog?’ If the first man had called a dog a banana, we would now call it a banana. It’s just foolish conformity.”

”Of all the bananas in the neighborhood,” Hai chimed in, “Tun’s is the most vicious. If she didn’t keep it on a leash, I would never set foot in her house even if I were her husband!”

“I think you should close your fat foot!” Tun growled at Hai.

Hai kicked up his foot and frowned:

“I think Ti meant your mouth,” Ti said helpfully.

“Ah,” Hai bowed solemnly. “From my foot to God’s ear.”

In those days, an outsider eavesdropping on us would have thought he had landed on an alien planet.

I’m not kidding. Who could have made block or tackle (head or tail) of the following conversations?

“It’s getting dark. I’m going home to fish.”

“My mother has promised to buy me a new cloud for my birthday.”

(“Fish” meant “go to bed,” and “cloud” meant “backpack.”)

Our parents were exasperated by our Newspeak, especially as the habit gradually got so engrained that when Ti’s father told her to turn off the fan, she turned off the TV; and when Tun’s mother asked her to buy some bananas, she walked the dog.

At that time, we thought our game was an ingenious invention—the kind of thing that only children could think of. We wanted to rename everything in the universe as if we had just created it. We did this because we were so young, and the world was so old. It was a way of staking our claim to a new, richer dominion of our own.

But when I grew up, I discovered that adults like this game, too, though for a very different reason. They call bribes gifts, for example, and speak of corruption as the cost of doing business. The purpose of renaming actions or concepts in this way is to muddy what is crystal clear, to use ambiguous language in place of a simple word that nobody could misunderstand. If the adult version of the game gets any more out of hand, the Swedish Academy is likely to award the Nobel Prize for Physics to someone who can exert hidden force on a stationary object to move it from one place to another without its owner being the wiser: i.e., to a pick-pocket.

In the real world, though, there is a price for changing the rules.

Take Hai’s slip-up.

His teacher called on him to recite a paragraph from his reader.

Hai calmly picked up his math book.

“You didn’t bring your reader?” the teacher asked, incredulous. “What about your notebook? Did you take notes yesterday?”

Hai pulled out a hat tucked in his pocket and put it on the table.

“Is this a joke?” The teacher sprang to her feet and her face went red. “Come with me to the principal’s office immediately!”

“Please, Miss. The principal isn’t in school today. We had a fight and he is now at home moaning and groaning.”

Of course, the principal, in Hai’s mind, was me. The day before, Hai and I had fought, and I had run a temperature in the evening, God knows why, so my mother kept me home. But Hai boasted that I had taken to my bed because he had beaten me up so badly.

In our alternate universe, Hai was the Sheriff, Tun was a flight attendant, Ti was Snow White, and I was the Principal. We renamed ourselves according to our secret desires.

In the days before Hai accidentally betrayed our code, our world was full of chatter like this:

Principal, I am going to set my banana on you if you don’t give me my cloud back.”

“What’s stuffed in your fat foot, Sheriff? At the very least, you could share the snack.”

Snow White, you stink! Did you wet the bed while you were fishing last night?”

Flight attendant, what a cute new knitted notebook you have, there. Let me try it on!”

And it was great calling chopsticks billiard balls, and mischief napping.

Fortunately, after ten minutes of interrogation, the real principal understood that Hai was suffering from temporary insanity. But by the next day, a dog was a dog again, and we were forbidden to rewrite the dictionary. Could it be that the adults reimposed their language on us because they were envious?

· · ·

Tôi là thằng cu Mùi

Con Tủn hồi bé khác xa con Tủn bây giờ. Nghĩa là đáng yêu hơn nhiều, cho dù nó không hề yêu tôi.

Sau vụ tin nhắn, tôi ngoắt nó ra ngoài hè, chửi té tát:

– Mày đưa cho mẹ mày đọc mẩu tin đó chi vậy?

– Tại mình không hiểu bạn muốn rủ mình làm gì.

– Bây giờ mày hiểu chưa?

– Chưa hiểu.

– Chưa hiểu thì đừng bao giờ hiểu.

Tôi nói vậy vì tôi đã hiểu rồi. Chính chú Nhiên đã giải thích cho tôi. Chú vừa giải thích vừa cười khà khà trong khi mặt tôi méo đi từng phút một.

Kể từ hôm tôi lỡ lầm một chút đó, đời tôi mất đi bao nhiêu thứ một chút khác. Ba tôi cấm tôi không được nghịch chiếc điện thoại của chú Nhiên nữa.

Không được gửi tin nhắn rủ con Tủn đi dạo một chút, lai rai một chút, đời tôi trở nên buồn quá nhiều chút.

Ngày tháng trở lại là những ngày tháng cũ. Lẽo đẽo trong hành lang hiu quạnh của cuộc sống, tôi lại đi từ trường về nhà, từ phòng ngủ đến phòng tắm, từ bàn ăn đến bàn học với một nhịp điệu không đổi, y như trái đất vẫn buồn tẻ quay quanh mặt trời.

Nếu tôi là trái đất, đôi khi tôi lẩn thẩn nghĩ, tôi sẽ không cam chịu sống một cuộc sống máy móc và đơn điệu như thế. Tôi sẽ không thèm quay nữa, hoặc là tôi sẽ tìm cách quay theo hướng khác. Mặc cho mọi thứ ra sao thì ra.

Nhưng tôi không phải là trái đất. Tôi là thằng cu Mùi.

Nếu có thời gian tìm hiểu hẳn tôi sẽ tìm thấy những chú bé thích rót nước vô chai và xới cơm vô thau. Chắc chắn thế.

Thật là sáng tạo, những đứa trẻ đó. Chúng làm vậy chẳng qua chỉ để cho đời bớt nhạt. Lý do mới lành mạnh làm sao!

Nhưng người lớn lại coi là ngổ ngáo, ngược đời và không giống ai những điều mà bọn trẻ chỉ đơn giản coi là thú vị.

Người lớn sẽ nói, hết sức nghiêm khắc:

– Này con, khi nào phải rượt đuổi ai hoặc bị ai rượt đuổi, con người mới phải chạy, khi nào cần vượt qua một chướng ngại vật như vũng nước hay mô đất, con người mới phải nhảy. Còn lúc khác, những người đứng đắn đều đi đứng khoan thai. Chẳng đứa trẻ ngoan nào lại nhảy như cóc hoặc đi trên gờ tường như khỉ thế kia!

Người lớn tiếp tục bảo ban:

– Người ta tạo ra cái lưỡi trai là để che nắng cho gương mặt, chỉ có những kẻ ngốc nghếch mới quay ngược cái nón lại như thế!

Tới lần thứ ba thì người lớn răn đe:

– Tao sắm tập bút cho mày đánh nhau và xé làm đồ chơi hả thằng kia?

Tất cả những gì người lớn dạy dỗ đều đúng về mặt lý thuyết, bọn trẻ đều thấy vậy. Nhưng bọn chúng vẫn có một sự thôi thúc vô hình làm cho khác đi trong thực tế.

Chẳng qua so với người lớn, trẻ con sống trong một bầu khí quyển khác và dưới một thứ ánh sáng khác. Ở đó, bọn trẻ tiếp cận thế giới theo cách của chúng, nghĩa là chúng không nhìn mọi thứ chung quanh dưới khía cạnh sử dụng. Ðó là điểm khác biệt căn bản giữa trẻ con và người lớn.

Với người lớn, ý nghĩa và giá trị của mọi thứ trên đời đều thu gọn vào hai chữ chức năng. Bạn lật bất cứ một cuốn từ điển nào của người lớn mà coi. Người ta định nghĩa thế giới này bằng chức năng, và chỉ bằng chức năng. Áo để mặc, ghế để ngồi, răng để nhai và lưỡi để nếm.

Cho nên không thể trách được nếu ba tôi quả quyết ly mới là thứ dùng để uống nước, còn chai chỉ dùng để đựng nước, nếu mọi ông bố bà mẹ khác đều nhanh chóng đồng ý với nhau rằng nón lưỡi trai dùng để che nắng, bút để viết và tập vở tất nhiên dùng để ghi chép.

Trẻ con không quan tâm đến chức năng. Ðơn giản vì trẻ con có kho báu vô giá: óc tưởng tượng.

Chiếc gối với người lớn là thứ để gối đầu nhưng với con Tí sún nghèo rớt mùng tơi thì đó là con búp bê hay khóc nhè mà nó phải ru mỗi ngày.

Với tôi và Hải cò, áo không chỉ dùng để mặc mà còn là thứ để nắm lấy khi tụi tôi cần trì níu để vật nhau xuống đất. Nếu áo mà chỉ dùng để mặc thì chán chết. Mà thực ra nếu trời không quá lạnh thì trẻ con cũng chẳng cần mặc áo.

Với mẹ thằng Hải cò, hiển nhiên cây chổi dùng để quét nhà. Nhưng nếu thấy Hải cò đứng tần ngần trước cây chổi, tôi đoán là nó đang nghĩ xem nên làm gì với cây chổi, nên ném vào cửa kiếng nhà hàng xóm để xem điều gì sẽ xảy ra sau đó hay nên cưỡi lên cây chổi rồi đọc thần chú để biết mình có bay được như các phù thủy trong truyện hay không. (Chuyện thần tiên là do người lớn viết ra, nhưng thường thì họ quên khuấy đi rằng họ viết ra chuyện thần tiên để trẻ con sống trong thế giới đó cho đến chừng nào trẻ con cũng trở thành người lớn như họ).

Những ngày ngồi cặm cụi gõ những con chữ này tôi còn nghiệm ra rằng những đứa trẻ thích trở chứng là những đứa trẻ muốn thể hiện cái tôi, tất nhiên thể hiện theo kiểu trẻ con. Quay ngược cái nón lưỡi trai ra phía sau, đứa trẻ muốn khẳng định rằng ta khác với phần còn lại của thế giới, thực ra cũng khó mà khác được vì trên thế giới bao la này có rất nhiều đứa trẻ đội nón kiểu oái oăm như vậy, nhưng ít ra cũng khác với thằng bạn đi bên cạnh.

Tất nhiên không phải đứa trẻ nào cũng thế. Cũng có những đứa trẻ thích giống nhau, bên cạnh những đứa trẻ thích khác nhau.

Người lớn dĩ nhiên vỗ tay hoan nghênh đám trẻ thứ nhất. Vì giống lẫn nhau, đó là thứ nguyên tắc mà người lớn sùng bái. Giống nhau tức là không cá biệt, không phá phách, không nổi loạn. Là nề nếp, quan trọng hơn nữa là an toàn. Nếu thật giống đám đông, giống đến mức lẫn lộn giữa người này với người khác, thậm chí tư tưởng ai nấy đều trùng khít với nhau thì càng tuyệt đối an toàn.

Nghĩ khác, nói khác và làm khác đám đông, dù là nghĩ đúng, nói đúng và làm đúng vẫn là sự lựa chọn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, trong nhiều trường hợp đó là con đường dẫn đến giàn thiêu mà Bruno là một ví dụ bi thương trong lịch sử nhân loại. (Khi mọi người đều tin rằng mặt trời quay quanh trái đất thì kẻ khăng khăng cho rằng trái đất quay quanh mặt trời chỉ có cách duy nhất là dùng cái chết để bảo vệ cho chân lý — điều đó là không thể khác).

Rất may là chúng tôi — tôi, Hải cò, con Tủn và con Tí sún — không ai trở thành Bruno vào năm tám tuổi. Chúng tôi chỉ làm ba mẹ phiền lòng chứ không đụng chạm đến những trật tự và những quyền lực bất khả xâm phạm.

Tôi và Hải cò không lên giàn thiêu.

Nhưng hai đứa tôi buộc phải thừa nhận rằng cái ly và cái chai (cũng như cái chén và cái thau) hoàn toàn khác nhau về công dụng và để bảo đảm cuộc sống vẫn diễn ra đúng theo khuôn phép và nhất là đúng ý ba mẹ, chúng tôi đành phải đồng ý rằng chức năng của những đứa trẻ ngoan là phải sử dụng đồ vật theo đúng chức năng mà người lớn đã quy định.

Sầu ơi là buồn!

· · ·

I am Little Mui

The adult Tun was even prettier than she had been at eight, although now, as then, she didn’t love me.

After the texting incident, I had given her a severe scolding:

“Why did you show that message to your mother?”

“Because I didn’t understand what you were asking me to do.”

“Do you understand it now?”

“I still don’t.”

“Then never try to.”

I said so protectively, because Uncle Nhien had explained the euphemism “getting into bed.” As he did so, he laughed at my reactions: first my face turned red, then white, then blue.

In the aftermath of that incident, my father forbade me to use Uncle Nhien’s cellphone. I lost my private channel to Tun, and with it, a secret joy. Life once again became a long, boring corridor with no windows. I came home straight from school, went from bedroom to bathroom to dining table to desk like an automaton—or like a captive planet, revolving around its sun.

Had I been the earth, I sometimes thought, I would have found a way to change my orbit.

But I was not the earth. I was Little Mui.

Still, I managed to make my orbit a little more erratic. I didn’t pour water into a glass any more. I poured it into a soft-drink bottle. We had a carton of them on top of a wardrobe, waiting to be recycled. Swigging from the bottle was sort of fun.

When Hai saw me swigging from the bottle, he ran all the way home to beg his mother for the same drink.

She told him that sodas were just a bunch of toxic chemicals mixed with water, and only crazy people would ingest them.

But Hai found a bottle in the recycling bin.

The next day, he came to my house with a triumphant look.

“Hey! I’ve been swigging water from this bottle since yesterday.”

“What do you think?”

“Water in a bottle tastes sweeter than water in a glass. How strange!”

I also taught Hai other strange things.

I stopped eating from a bowl. During a meal, to my parents’ surprise, I put my food into a tin wash basin, then carried it to the porch, and squatted there, watching the passing traffic. Life, briefly, was fun again.

Eating from that basin made me look like a pig at its trough, but Hai was intrigued.

The next day, he came to see me.

“I just ate out of a basin,” he bragged

“Food in a basin tastes delicious—much more so than food in a bowl. How strange!“

I didn’t find it strange—I had foreseen it, but I had no idea why the switch worked.

Now, of course, I understand that our sense of taste is partly based on our expectations—it’s psychological, in other words. A change of circumstances leads to a change of feelings.

Why do declarations of love sound more romantic beside a pearly river glowing in the sunset than they do at noon in a crowded marketplace?

Why do couples take “second honeymoons” in faraway places to recover the freshness of their first love?

We need renewal, that’s why. New surroundings inspire new perceptions.

And some adults go to extreme measures for the sake of novelty—like quitting a good job, or replacing a spouse. But they don’t acknowledge the same needs in their children.

Okay, so Hai and I drank water from a bottle and ate rice from a wash basin, and it didn’t change the world. Old wars ended and new ones began. Children still went to bed hungry. Coups deposed this president or that dictator. The Israelis and the Palestinians still fought over their turf.

But from our parents’ reactions, you would think that our eccentric new eating habits were something earth-shattering.

“What, are you crazy?” my mother asked. “Everyone drinks water from a glass.”

I liked to drink water from a bottle precisely because everyone drank it from a glass. The reason was that simple, but I didn’t dare tell her.

My father harrumphed:

“Glasses are used to drink water, bottles are used to hold water, bowls are used to eat rice, and basins are for washing. Don’t you know anything, you rascal?”

When my father called me a “rascal,” he was really angry.

“Yes, I do.”

“Oh you do? Why these whims, then?”

I couldn’t explain it all to him, either.

Much later, when I became a real father, not the “father” of Hai and Tun, I found out that kids, as they say, “do the darndest things.”

Some don’t want to walk normally. They jump or hop or tiptoe, and they prefer teetering on a high wall to planting one foot after the other on solid ground.

Others like to wear their caps backwards.

Still others use their pens as swords, or make boats out of paper, rather than using it for writing letters.

And I’m sure there are kids who drink water from a shell, or even from a shoe, and eat rice from a piece of newspaper, folded into a cone.

And they’re very creative, too! They’re just making their lives less boring.

Yet adults bristle at any signs of “silliness.”

Here is how they see things: you run when you’re being chased; you jump when you want to clear a puddle; the brim of a cap is made to protect your face, so it’s stupid to wear it backwards. A pen is not a sword—stop waving it around, or you’ll put out someone’s eye. And good paper is expensive, thank you! You might as well fold up fifty thousand dong notes and launch them on a pond.

The objects in an adult’s world are defined by their function. Consult a dictionary if you want to know the meaning of adult life. Clothes cover our nakedness; chairs are things to sit on; you eat at a table, and you sleep in a bed. Teeth chew things, and we taste with our tongue.

That’s why I don’t blame my father for insisting on the “real” function of bowls or glasses.

But kids possess an invaluable treasure—their power to imagine the world differently, and to assign strange functions to familiar things.

For Hai’s mother, a broom was a useful construction of wood and straw that she used to sweep her floors. But if I saw Hai standing undecided in front of a broom, I would guess he was thinking about throwing it like a spear, or riding it like a horse, or casting a spell that would make it airborne, like the broom in a fairy tale.

Of course, not all kids resist conformity.

They just want to belong. And naturally, adults applaud them for it.

Not that they are wrong to. Standing out in a crowd has always been a risky choice. Just ask the victims of the Spanish Inquisition. (Inquisitions come in many forms.) Like Giordano Bruno—the Roman astronomer burned at the stake for heresy, in 1600, because he believed, contrary to Church teaching, that the earth revolved around the sun.

Hai and I were not burned at the stake. But we both had to admit that the function of children, as adults see it, is to outgrow their childishness.

· · ·